1. Giới thiệu chung
Hậu Giang – vùng đất hạ lưu sông Hậu, từ lâu được biết đến là một vùng đất trù phú, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, giao thương, dịch vụ mang những nét đặc trưng của sông nước miệt vườn miền Tây. Bằng những lợi thế về vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên và dân cư Hậu Giang đã và đang thu hút nhiều khách du lịch và nhà đầu tư lớn. Được thành lập vào năm 2004 do tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ. Tỉnh lỵ hiện nay là thành phố Vị Thanh cách Thành phố Hồ Chí Minh 240 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 60 km theo Quốc lộ 61 và chỉ cách 40 km theo đường nối Vị Thanh – thành phố Cần Thơ.
2. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý và địa giới hành chính tiếp giáp với 5 tỉnh cụ thể như sau:
– Từ 1050 18’ đến 1050 55’ kinh độ Đông;
– Từ 90 35’ đến 100 00’ vĩ độ Bắc.
– Phía Bắc và Tây bắc giáp thành phố Cần Thơ;
– Phía Nam giáp tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Sóc Trăng;
– Phía Đông giáp sông Hậu và tỉnh Sóc Trăng;
– Phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang.
Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2014, Hậu Giang có 08 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó: 01 thành phố, 02 thị xã và 05 huyện (với 54 xã, 12 phường, 10 thị trấn).
3. Dân cư
Hậu Giang là một tỉnh có diện tích nhỏ so với các tỉnh trong quy hoạch vùng, có dân số và mật độ ở mức rất thấp. Nguồn lao động của tỉnh còn yếu kém, trong đó tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo ở mức trung bình so với các tỉnh trong quy hoạch vùng.
Tính đến năm 2020, diện tích của tỉnh là 1,621.7km2, tổng dân số của tỉnh là 729,800 người, mật độ dân số đạt 272 người/ km2. So với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, dân số Hậu Giang đứng thứ 13/13 và mật độ dân số đứng thứ 12/13. Số người lao động trên 15 tuổi của Hậu Giang ở mức rất thấp so với các tỉnh quy hoạch vùng, đứng thứ 13/13 (Cao nhất là Tiền Giang), tỷ lệ lao động trên 15 tuổi qua đào tạo ở mức trung bình so với các tỉnh, đứng thứ 6/13.
Dân cư của tỉnh Hậu Giang phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở Huyện Phụng Hiệp, Huyện Châu Thành A, và Huyện Vị Thuỷ, trong đó, TP. Ngã Bảy có mật độ dân cư cao nhất. Huyện Long Mỹ có mật độ dân số thấp nhất trong tỉnh. Tỷ lệ dân cư ở nông thôn của Hậu Giang chiếm tỷ lệ lớn gấp hơn 2.5 lần tỷ lệ dân cư ở thành thị.
4. Khí hậu
Tỉnh Hậu Giang nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, gần xích đạo, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa có gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô có gió Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 4 hàng năm. Nhiệt độ trung bình là 270C không có sự chênh lệch quá lớn qua các năm. Tháng có nhiệt độ cao nhất (350C) là tháng 4 và thấp nhất vào tháng 12 (20,30C). Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, chiếm từ 92% – 97% lượng mưa cả năm. Lượng mưa ở Hậu Giang thuộc loại trung bình, khoảng 1800 mm/năm, lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 9 (250,1 mm). Ẩm độ tương đối trung bình trong năm phân hoá theo mùa một cách rõ rệt, chênh lệch độ ẩm trung bình giữa tháng ẩm nhất và tháng ít ẩm nhất khoảng 11%. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và 4 (77%) và độ ẩm trung bình trong năm là 82%.
Hậu Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa. Điều kiện khí hậu thời tiết của Hậu Giang có những thuận lợi cơ bản mà các tỉnh khác ở vùng ĐBSCL không có được như: ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.
5. Thủy văn
Tỉnh Hậu Giang có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 2.300 km. Mật độ sông rạch khá lớn 1,5 km/km2, vùng ven sông Hậu thuộc huyện Châu Thành lên đến 2 km/km2. Hậu Giang nằm trong vùng trũng của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Cấu tạo của vùng có thể chia thành hai vùng cấu trúc rõ rệt là Tầng cấu trúc dưới và Tầng cấu trúc bên trên, trong đó Tầng cấu trúc dưới gồm Nền đá cổ cấu tạo bằng đá Granit và các đá kết tinh khác, bên trên là đá cứng cấu tạo bằng đá trầm tích biển hoặc lục địa và các loại đá mắcma xâm nhập hoặc phun trào.
Hậu Giang là một Tỉnh ở cuối nguồn nước ngọt của nhánh sông Hậu nhưng lại ở đầu nguồn nước mặn của vịnh Thái Lan. Chế độ thủy văn của Hậu Giang bị chi phối bởi 3 yếu tố: thủy triều vịnh Thái Lan, chế độ thủy văn của sông Hậu và mưa tại chỗ. Các yếu tố này tác động từng thời kỳ, từng vùng khác nhau làm cho chế độ thủy văn Hậu Giang diễn biến phong phú và đa dạng.
6. Giao thông
Hậu Giang nằm cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km đường bộ về phía tây nam, hệ thống giao thông ở tỉnh tương đối thuận tiện, bao gồm đường bộ, đường thuỷ. Trong đó, hệ thống giao thông đường bộ không ngừng phát triển. Giao thông nội bộ các thành phố, thị xã được nâng cấp và tráng nhựa.
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trên địa bàn tỉnh, có năm trục giao thông huyết mạch là quốc lộ 1A, quốc lộ 61, quốc lộ 61B, quốc lộ Nam Sông Hậu, quốc lộ Quản lộ Phụng Hiệp. Ngoài ra, tuyến đường bộ nối Vị Thanh – Cần Thơ, tuyến đường Bốn Tổng – Một Ngàn là cầu nối quan trọng giữa Hậu Giang, thành phố Cần Thơ với tỉnh Kiên Giang. Đường nội bộ tỉnh, gồm các tuyến 924 đến 933 với tổng chiều dài khoảng 400 km. Mạng lưới đường thủy, gồm có hai trục giao thông quốc gia kênh Xà No, kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp. Hệ thống kênh, rạch hình thành mạng lưới đường thủy chằng chịt, trải đều địa bàn tỉnh đảm bảo cho việc vận tải thuỷ thuận lợi.
GIAO THÔNG ĐƯỜNG THUỶ
Với điều kiện thiên nhiên ưu đãi, tỉnh Hậu Giang có một mạng lưới sông – kênh – rạch rất phong phú và đa dạng. Mạng lưới đường thủy trên địa bàn tỉnh có tổng chiều dài khoảng 724 km, trong đó:
- Trung ương quản lý : 96 km.
- Tỉnh quản lý : 223 km.
- Huyện quản lý : 405 km.
Trên địa bàn tỉnh có 2 tuyến vận tải thủy quốc gia đi qua đạt tiêu chuẩn đường thủy nội địa cấp 3:
- Tuyến từ sông Hậu – sông Cần Thơ – kênh xáng Xà No – rạch Cái Nhất – sông Cái Tư.
- Tuyến từ sông Hậu – rạch Cái Côn – kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp.
Các tuyến vận tải thủy do địa phương quản lý:
- Mạng lưới đường thủy do tỉnh quản lý bao gồm 7 tuyến (Kênh Nàng Mau, sông Cái Lớn, rạch Nước Trong, kênh KH9, kênh Saintenoy, kênh 8000), hầu hết đạt tiêu chuẩn sông – kênh cấp 4 – 5.
- Mạng lưới đường thủy do huyện quản lý hầu hết đạt tiêu chuẩn sông – kênh cấp 5 – 6.
- Trên mạng lưới đường thủy do địa phương quản lý còn nhiều chướng ngại vật, chủ yếu là các cầu với tĩnh không thông thuyền thấp, trên mặt sông kênh có nhiều đăng đáy cá, lục bình lấn chiếm làm cản trở thuyền bè qua lại.
7. Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
VỀ NÔNG NGHIỆP
Đến năm 2015 toàn tỉnh có trên 74.560 hộ nông dân sản xuất giỏi có mô hình đạt giá trị thu nhập từ 50 – 100 triệu đồng/ha/năm, gấp 2 lần so với năm 2010 và có 35.807 hộ sản xuất hiệu quả có mô hình đạt giá trị trên 105 triệu đồng/ha/năm (năm 2010 là 45 triệu đồng/ha/năm), gấp 2,3 lần năm 2010, đưa thu nhập bình quân trên một đơn vị diện tích đất canh tác đến hết năm 2015 trên địa bàn cả tỉnh là 52 triệu đồng/ha/năm, bằng 1,67 lần so với năm 2010 (năm 2010 là 31 triệu đồng/ha/năm), lợi nhuận gần 30%.
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân 13%/năm, dịch vụ tăng 10%/năm, trồng trọt tăng 3%/năm. Tỷ trọng trồng trọt đã giảm từ 82,3% năm 2010 còn 80,7% năm 2015; chăn nuôi tăng 12,3% năm 2010 lên 13,3% năm 2015; dịch vụ tăng 5,4% năm 2010 lên 6% năm 2015. Nông sản hàng hóa khá đa dạng, một số mặt hàng nông sản bước đầu hình thành mối liên kết 4 nhà; công tác ứng dụng khoa học công nghệ đã phát huy hiệu quả; khống chế nhanh dịch bệnh; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng.
Lúa là cây trồng chủ lực, diện tích trồng lúa ổn định khoảng 78.000 ha, diện tích gieo trồng năm 2015: 207.029 ha, năng suất bình quân 6,31 tấn/ha, sản lượng 1,306 triệu tấn; so với năm 2010 năng suất tăng 1,16 tấn/ha, sản lượng tăng 16,5%; tỷ lệ sử dụng giống xác nhận đạt trên 70%, lượng gạo xuất khẩu trung bình khoảng 350.000 – 400.000 tấn/năm. Cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp được quan tâm đầu tư, trong sản xuất lúa tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất, tưới tiêu trên 95%; khâu thu hoạch khoảng 74% diện tích canh tác lúa.
Cây ăn trái tăng mạnh, nhất là cây có múi sạch bệnh và cây ăn trái đặc sản, trong đó các cây trồng chủ lực như: Bưởi Năm roi, cam mật, cam sành, quýt đường, xoài cát Hòa Lộc,…, diện tích cây ăn trái tăng từ 22.962 ha năm 2010 lên 33.893 ha năm 2015 tăng 47,6% (trong đó cây khóm 1.600 ha). Sản lượng 265.000 tấn, tăng 55% so với năm 2010. Cơ cấu cây có múi chiếm 46,5% diện tích cây ăn trái.
Thủy sản là thế mạnh thứ hai sau cây lúa và có tiềm năng khá lớn (50.000 ha), nhưng quy mô nhỏ, giá trị sản xuất theo giá thực tế năm 2015 đạt 1.800 tỷ đồng, chiếm 12,7% giá trị sản xuất khu vực I. Năm 2015 diện tích nuôi 7.309 ha, sản lượng 68.596 tấn, tăng 42,9% so năm 2010 (tăng 20.893 tấn), trong đó sản lượng nuôi tăng 17,2%/năm, điều này thể hiện việc nuôi trồng thủy sản có bước chuyển biến mới do nuôi thâm canh thay nuôi quảng canh trước đây. Đã có nhiều mô hình nuôi thủy sản an toàn, chất lượng theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), hình thành các vùng nuôi tập trung.
Lâm nghiệp, có quy mô nhỏ, chủ yếu trồng rừng phòng hộ và trồng cây phân tán. Tỷ lệ che phủ rừng đạt thấp, chỉ khoảng 1,8% diện tích tự nhiên của tỉnh. Công tác phòng chống cháy rừng được quan tâm; toàn tỉnh có 09 trại nuôi động vật hoang dã với 224.408 cá thể.
VỀ CÔNG NGHIỆP
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2015 tăng 7,1%. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,01%; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 8,27% và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 12,53%.
Sản lượng điện tiêu thụ từ 285 triệu KWh năm 2010 tăng lên 672 KWh năm 2015; sản lượng điện tiêu thụ bình quân đầu người từ 374 KWh/người năm 2010 lên 831 KWh người năm 2015; số xã sử dụng điện đạt 100%, tỷ lệ hộ sử dụng điện khu vực thành thị là 100% và khu vực nông thôn là 95,5%; tỷ lệ hộ sử dụng điện an toàn là 96,5%.
Toàn tỉnh có 4.200 cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động; có 2 khu công nghiệp và 8 cụm công nghiệp tập trung, với tổng diện tích là 1.529,7 ha, trong 05 năm đã thu hút được 50 nhà đầu tư, gồm 78 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký gần 70.000 tỷ đồng và 668,7 triệu USD; tỷ lệ đất lấp đầy theo đăng ký 71%, đã có 45 dự án đi vào hoạt động, với tổng vốn thực hiện 15.779,17 tỷ đồng và 40 triệu USD, giải quyết việc làm cho trên 18.585 lao động; hiện có 12 dự án đang triển khai với số vốn đầu tư đăng ký 46.536,33 tỷ đồng và 628,7 triệu USD; còn 09 dự án chưa triển khai với tổng vốn đầu tư đăng ký 2.684,5 tỷ đồng.
VỀ DỊCH VỤ
Kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ thu ngoại tệ đến năm 2015 đạt 420,025 triệu USD, vượt 5,01% kế hoạch, tăng bình quân 18,06%/năm (năm 2010: 183 triệu USD), trong đó xuất khẩu trực tiếp tăng 19%/năm; ủy thác xuất khẩu giảm 24,2%/năm; dịch vụ thu ngoại tệ tăng 13,6%/năm. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông,thủy sản, trái cây, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, giày da, tiếp tục tăng cao trong cơ cấu xuất khẩu. Nhập khẩu đến năm 2015 là 86,425 triệu USD, đạt 86,4% kế hoạch, tăng bình quân 11,79%/năm (năm 2010: 49,5 triệu USD); tập trung chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu.
Dịch vụ vận tải đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách, chất lượng phục vụ của các đơn vị tham gia vận tải hành khách được nâng cao, trật tự vận tải hành khách được cải thiện. Giá trị sản xuất ngành giao thông vận tải tăng bình quân 10 – 11%/năm. Năm 2015 tổng sản lượng vận tải hàng hóa đạt trên 8,7 triệu tấn, tăng 7,8%/năm và trên 99 triệu lượt hành khách, tăng 9,2%/năm. Trong cơ cấu ngành vận tải của tỉnh, vận tải thủy chiếm vị trí chủ yếu, khoảng 80% khối lượng hàng hoá vận chuyển và 91,5% khối lượng hàng hoá luân chuyển. Khối lượng vận tải đường bộ chiếm khoảng 20% khối lượng vận chuyển hàng hoá và 8,5% hàng hoá luân chuyển.
Lĩnh vực du lịch từng bước phát triển, một số di tích lịch sử, văn hóa được đầu tư xây dựng, nâng cấp, mở rộng, gắn kết với khai thác du lịch, lượng khách tham quan tăng bình quân 8%/năm. Hàng năm, tỉnh đều tham gia các hoạt động du lịch nhằm quảng bá hình ảnh, sản phẩm du lịch Hậu Giang. Tổng lượng khách du lịch năm 2015 khoảng 200.000 lượt, tăng bình quân 8,5%/năm. Tuy nhiên, hoạt động du lịch chưa khai thác đúng mức tiềm năng cả về nội dung và phương thức hoạt động, chất lượng phục vụ còn kém.
Lĩnh vực Bưu chính viễn thông phát triển có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu đời sống nhân dân. 100% số xã có bưu điện văn hóa xã. Số thuê bao điện thoại/100 dân đạt mật độ 92 máy (năm 2010 là 65 máy), tăng bình quân 14,7%/năm; số thuê bao internet băng thông rộng đạt 1,5 thiết bị. Toàn tỉnh có 62 điểm hoạt động bưu chính, viễn thông ở 76 xã, phường, thị trấn. Các loại hình dịch vụ khác như: y tế, bảo hiểm, giáo dục, văn hóa, nhà hàng, khách sạn, tư vấn pháp luật đều có sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng dịch vụ.
8. Định hướng phát triển kinh tế trong tương lai
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GRDP bình quân 5 năm (2016 – 2020) tăng trên 7%/năm, trong đó khu vực I: 3%, khu vực II: 13,28%, khu vực III: 8,26%.
Tổng sản phẩm GRDP theo giá hiện hành đến năm 2020 đạt 42.771 tỷ đồng, tăng bình quân 14,78%/năm; GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 55 triệu đồng/người, tương đương 2.500 USD.
Cơ cấu kinh tế đến năm 2020 là dịch vụ – công nghiệp, xây dựng – nông nghiệp; chuyển dịch theo hướng giảm tương đối tỷ trọng khu vực I từ 33,95% còn 24,34%, tăng tỷ trọng khu vực II từ 21,18% lên 27,38% và khu vực III từ 44,87% lên 48,28 %.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn trong 5 năm 2016 – 2020 theo giá thực tế từ 90.000 – 95.000 tỷ đồng, tăng bình quân 7,95%/năm, bình quân mỗi năm khoảng 18.000 – 19.000 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GRDP năm 2015 là 66,75% xuống còn 49,1% vào năm 2020.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 5 năm 28.000 – 30.000 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 5,2%/năm. Trong đó tổng thu ngân sách nhà nước năm 2020 là 6.500 tỷ đồng (thu nội địa là 1.350 tỷ đồng). Tỷ lệ nợ chính quyền địa phương trên tổng chi đến năm 2020 dưới 0,31%.
Kim ngạch xuất nhập khẩu và dịch vụ thu ngoại tệ năm 2020 đạt 920 triệu USD, tăng bình quân 12,68%/năm. Giá trị xuất khẩu đến năm 2020 đạt 700 triệu USD, tăng bình quân 10,76%/năm; nhập khẩu 220 triệu USD, tăng bình quân 20,5%/năm.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 5 năm (2016 – 2020) dưới 7% (không vượt quá bình quân cả nước).