Tổng quan về Lạng Sơn

1.Giới thiệu chung

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh. Biên giới nằm ở vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng,  Phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh và thành phố Sùng Tả, Phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang, Phía Nam giáp tỉnh Bắc Giang. Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị thuộc huyện Cao Lộc. Có 1 cửa khẩu quốc gia: Chi Ma (huyện Lộc Bình) và nhiều lối mở biên giới với Trung Quốc. Vì diện tích đồi núi chiếm hơn 80% nên có ít khu công nghiệp ở nơi này, Lạng Sơn là một tỉnh miền núi với 80% dân số là nông dân và dân tộc khác nhau nhưng điều đó không làm ảnh hưởng tới quá trình phát triển của các ngành công nghiệp của tỉnh.

2. Vị trí địa lý

Tỉnh Lạng Sơn nằm ở phía Bắc Việt Nam. Nó có vị trí địa lý chiến lược với nhiều lợi thế kinh tế. Lạng Sơn là cửa ngõ kết nối Việt Nam với thị trường Trung Quốc và các trung tâm kinh tế lớn trong nước.

Nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch

Lạng Sơn nằm tại điểm giao cắt của nhiều tuyến đường quan trọng. Có Quốc lộ 1A và đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và thúc đẩy thương mại, logistics, du lịch.

Giáp ranh với Trung Quốc và các tỉnh phát triển

Lạng Sơn giáp ranh với Trung Quốc và các tỉnh phát triển như Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên. Vị trí kết nối này tạo cơ hội lớn cho Lạng Sơn. Tỉnh có thể trở thành trung tâm giao thương và đầu tư giữa Việt Nam và Trung Quốc.

3. Địa hình

 Địa hình Lạng Sơn phổ biến là núi thấp và đồi, ít núi trung bình và không có núi cao. Độ cao trung bình là 252m so với mực nước biển; Nơi thấp nhất là 20m ở phía Nam huyện Hữu Lũng, trên thung lũng sông Thương; Nơi cao nhất là đỉnh Phia Mè (thuộc khối núi Mẫu Sơn) cao 1.541m so với mặt biển.  Hướng địa hình rất đa dạng và phức tạp: Hướng tây bắc – đông nam  thể hiện ở máng trũng Thất Khê – Lộc Bình, trên đó có thung lũng các sông Bắc Khê, Kỳ Cùng và Tiên Yên (Quảng Ninh) và dãy hồ Đệ Tam đã được lấp đầy trầm tích Đệ Tam và Đệ Tứ, tạo thành các đồng bằng giữa núi có giá trị đối với ngành nông nghiệp của tỉnh như Thất Khê, Na Dương, Bản Ngà; Hướng đông bắc – tây nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Hữu Lũng, Bắc Sơn, Chi Lăng, Văn Quan và phần lớn huyện Văn Lãng, hướng này cũng thấy ở núi đồi huyện Cao Lộc (các xã Lộc Yên, Thanh Lòa và Thạch Đạn); Hướng bắc – nam thể hiện ở hướng núi thuộc các huyện Tràng Định, Bình Gia và phần phía tây huyện Văn Lãng; Hướng tây – đông thể hiện ở hướng của quần sơn Mẫu Sơn với khoảng 80 ngọn núi.

4. Đất đai

Theo thống kê (10/1995), diện tích đất tự nhiên là 818.725 ha, trong đó: đất nông nghiệp là 64.630,61 ha chiếm 7,59 %; đất lâm nghiệp có rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng) là 172.635,01 ha chiếm 21,08 %; đất chuyên dùng là 10.787 ha, chiếm 1,33 %; đất ở là 4.611,48 ha, chiếm 0,56 %; đất chưa sử dụng và các loại đất khác là 565.969, 7 ha chiếm 69,13%. Đất đai Lạng Sơn được chia thành 7 vùng với 16 tiểu vùng địa lý thổ nhưỡng gồm 43 loại đất khác nhau phù hợp với nhiều loại cây trồng khác nhau.

5. Khoáng sản

Trong địa phận tỉnh Lạng Sơn, nhóm khoáng sản kim loại gồm có kim loại đen (sắt, măng gan), kim loại màu (nhôm, péc mi sớm, quặng bô xít, quặng alít, đồng, chì, kẽm, đa kim), kim loại quý (vàng) và kim loại hiếm (thiếc, môlípđen, vananđi, thủy ngân); khoáng sản phi kim loại gồm có khoáng sản nhiên liệu (than nâu, than bùn); khoáng sản dùng làm nguyên liệu áp quang và áp điện (thạch anh kỹ thuật); khoáng sản dùng làm nguyên liệu và phân bón; khoáng sản dùng làm vật liệu xây dựng.

6. Khí hậu

Lạng Sơn mang tính điển hình của khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 17 – 220C, có tháng lạnh nhất có thể giảm xuống 5C, có lúc 0C  hoặc dưới 00 C. Nằm ở phần cực bắc của đới vĩ độ thấp gần giáp chí tuyến bắc, giữa các vĩ độ 21­019’ và 22027’ vĩ bắc, và giữa 10606’ và 107021’ kinh đông nên Lạng Sơn có nguồn bức xạ phong phú, cho phép các loại cây trồng vật nuôi bốn mùa sinh sôi nảy nở; tuy nhiên Lạng Sơn lại nằm ở cửa ngõ đón gió mùa mùa đông, nơi có gió mùa cực đới đến sớm nhất và kết thúc muộn nhất ở miền Bắc nước ta nên có mùa đông lạnh.

7. Lượng mưa

Lạng Sơn nằm ở khu vực Đông Bắc, ít mưa của vùng khí hậu miền Bắc; lượng mưa trung bình năm là 1.200 – 1.600 mm. Nơi duy nhất có lượng mưa trên 1.600mm là vùng núi cao Mẫu Sơn (2.589mm); tại Lạng Sơn có Na Sầm (1.118 mm) và Đồng Đăng (1.100mm) là những trung tâm khô hạn của miền Bắc.

8. Sông ngòi

Chịu chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại nằm trong vùng đất dốc thuộc khu miền núi Đông Bắc, Lạng Sơn có mạng lưới sông ngòi khá phong phú. Mật độ mạng lưới sông ở đây dao động trung bình từ 0,6 đến 1,2 km/km2. So với mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km2 thì mật độ sông suối của Lạng Sơn thuộc loại từ trung bình đến khá dày. Lạng Sơn có 5 sông chính độc lập, đó là sông Kỳ Cùng, Sông Thương, Sông Lục Nam, sông Tiên Yên- Ba Chẽ (hay Nậm Luổi – Đồng Quy) và sông Nà Lang.

9. Lợi thế về nguồn nhân lực của Tỉnh Lạng Sơn

Tỉnh Lạng Sơn có lợi thế lớn về nhân lực. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động cao. Điều này giúp Lạng Sơn có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng phát triển.

Chi phí nhân công ở đây hợp lý. Điều này thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư và mở rộng.

Chính quyền địa phương đang tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực. Họ triển khai các chương trình đào tạo kỹ năng và chuyên môn. Mục tiêu là cung cấp đội ngũ lao động có trình độ đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

Nguồn lao động dồi dào và chi phí nhân công hợp lý sẽ giúp Lạng Sơn trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư.

Lạng Sơn đang nỗ lực xây dựng môi trường đầu tư thân thiện. Mục tiêu là thu hút các dự án kinh tế, công nghiệp và dịch vụ mới.

10. Dân số, lao động – việc làm

Theo kết quả tổng quan kinh tế – xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2012 của Cục Thống kê tỉnh, ước tính dân số của tỉnh Lạng Sơn có khoảng 745 nghìn người. Trong đó nam là 372 nghìn người, chiếm 49,95% tổng dân số cả tỉnh; nữ là 373 nghìn người chiếm 50,05 %. Dân số khu vực thành thị 143,3 nghìn người chiếm 19,22 % tổng dân số; dân số khu vực nông thôn 602,1 nghìn người chiếm 80,7%. Cơ cấu dân số tỉnh Lạng Sơn trẻ, nguồn lao động khá dồi dào. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2012 là 490,6 nghìn người tăng 2,38 % so với năm 2011; trong đó lao động nam chiếm 50,16%, nữ chiếm  49,84%. Cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 78,05%; khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm 4,65 %; khu vực dịch vụ chiếm 17,3%.

11. Giao thông vận tải

Đường sắt liên vận quốc tế từ Hà Nội đến Đồng Đăng – Lạng Sơn và cửa khẩu biên giới Việt Trung với chiều dài 165 km là một trong những lợi thế của Lạng Sơn.

Đường bộ Lạng Sơn phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với tổng chiều dài là 2.828 km, mật độ 0,35km/km2, trong đó có các quốc lộ: 1A (nối Lạng Sơn – Hà Nội 154 km); 1B (Đồng Đăng – Thái Nguyên 105 km, chạy qua các huyện  Văn Quan, Bình Gia, Bắc Sơn, nối tiếp với Bắc Cạn và thành phố Thái Nguyên), 4A (Lạng Sơn – Cao Bằng 66 km qua huyện Văn Lãng, Tràng Định nối với Cao Bằng); 4B (dài 80 km nối Lạng Sơn với Quảng Ninh qua huyện biên giới  Đình Lập, Lộc Bình); Quốc lộ 31 (Đình Lập – Bắc Giang dài 61 km); quốc lộ 279 (Bình Gia – Thái Nguyên dài 55 km). Các đường tỉnh lộ dài 1.350 km và đường huyện dài 974 km. Đường bộ Lạng Sơn đã tới được tất cả các thị trấn huyện lỵ, cửa khẩu, chợ biên giới và 226 xã, phường của tỉnh.

Đường thủy: Một số đoạn của sông Kỳ Cùng, từ khu vực Lộc Bình qua thành phố tới Văn Lãng và Tràng Định. Khối lượng vận chuyển hàng hóa còn nhỏ.

12. Nông nghiệp truyền thống và công nghiệp chế biến

Nông nghiệp là thế mạnh của tỉnh Lạng Sơn. Sản xuất nông nghiệp quy mô lớn và ngành công nghiệp chế biến nông sản phát triển mạnh là điểm mạnh. Sự kết hợp giữa hai lĩnh vực đã tạo nên chuỗi giá trị nông nghiệp hiệu quả.

Lạng Sơn có diện tích canh tác nông nghiệp rộng. Các sản phẩm nông nghiệp chủ lực bao gồm:

  • Lúa gạo
  • Chè
  • Hoa quả
  • Cà phê

Đất đai và khí hậu tốt giúp nông sản Lạng Sơn đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Ngành công nghiệp chế biến nông sản phát triển mạnh

Sản xuất nông nghiệp quy mô lớn và ngành công nghiệp chế biến nông sản phát triển mạnh. Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào chế biến nông sản. Điều này tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Chào bạn, bạn đang xem IMQ Group, thành lập năm 2004, là tập đoàn đa lĩnh vực, hỗ trợ khách hàng từ lúc bắt đầu dự án đầu tư và xuyên suốt quá trình vận hành doanh nghiệp. Bạn có muốn IMQ Group hỗ trợ, tư vấn, cung cấp thông tin định kỳ!

Đăng ký Tư vấn & nhận Bản tin IMQ Group

Chào bạn, bạn đang xem IMQ Group, thành lập năm 2004, là tập đoàn đa lĩnh vực, hỗ trợ khách hàng từ lúc bắt đầu dự án đầu tư và xuyên suốt quá trình vận hành doanh nghiệp. Bạn có muốn IMQ Group hỗ trợ, tư vấn, cung cấp thông tin định kỳ!

Đăng ký Tư vấn & nhận Bản tin IMQ Group